Thứ Năm, 31 tháng 5, 2012

Từ ụ nổi đến chuyện ụ mối.


Tam thập lục kế tẩu vi thượng sách, "đồng chí" Dương Chí Dũng cúng thần bái thánh rồi cao chạy xa bay nơi đâu chưa ai biết cả. Người ta hồ nghi có kẻ dĩ lậu tin tức cho "đồng chí" tẩu thoát kịp thời. Vị ấy chắc không ai khác, cũng một duột "các đồng chí ta" cả.
Người mất của còn. Còn cái ụ nổi No83M hư nát trên cảng Gò Dầu, chi phí thuê chỗ, giữ, trực ban đã 30 tỷ và tiếp tục đều đặn "chi phí" 1,6 tỷ đồng mỗi tháng.
Mưu kế mua ụ nổi quá đát Nga sô sản xuất năm 1965, làm căn cứ "cho ta có điều kiện vươn ra bể lớn" là con bài quen thuộc kiếm chác bạc tỷ để tiêu xài thả cửa.
Theo công an điều tra, " Ụ nổi 83M là một ụ nổi cũ, bị hư hỏng nặng, không còn hoạt động, đã bị Cơ quan Đăng kiểm Nga dừng cấp phép kiểm định, quá thời hạn theo quy định là 22 tuổi, không đủ điều kiện nhập khẩu". Thế nên, ngày 8/10/2007, "đồng chí Dũng" ký quyết định "đầu tư" 14,136 triệu USD, kéo cái ụ nát Nga sô ấy từ Nakhodka về nước Nam sửa chữa, đội giá lên tới 24,3 triệu USD, rồi không sử dụng được, tiếp tục trả tiền phí chờ ngày xả ra bán sắt phế liệu.


Xem ảnh chân tướng "đồng chí tẩu thoát", tự nhiên sanh sự gợi cảm về mấy con mối. Cái ụ nổi nó có bà con ngôn ngữ cái ụ mối để liên tưởng bọn mối phá nhà chăng ?
Chuyện ụ mối như sau :
Mối là giống côn trùng đông đúc nhất thế giới. Chúng sống thành từng bầy, có con mối vua đứng đầu, có bọn mối tướng phò tá, có bầy mối lính bảo vệ, có tập đoàn mối thợ làm lụng nuôi bầy đảng mối.
Loài mối ăn gỗ để sống. Chúng kéo nhau đi tìm mấy cái nhà gỗ đục khoét, cắn phá cột kèo, rui mèn cửa ngõ, chỉ trong vài ngày ăn là sập nhà rụi cửa.
Nhà nào có bọn mối kéo đến thăm hỏi coi như mạt vận, tàn tạ gấp gáp.
Cơ ngơi của mối ở mấy ụ mối, gò mối nổi bờ tre bụi hóp, ven rừng ven rú cây khô gỗ mục. Từ cái ụ mối đùn, xuất phát từng đoàn quân mối, rầm rộ kéo nhau mở lối nhà hoang, thiên hạ sợ hãi.


Thứ Tư, 30 tháng 5, 2012

Nỗi khổ.


Dẫu im lìm dú diếm hay kêu rêu cầu thông cảm thời ai cũng có nỗi khổ riêng tư cả. Ông khổ, bà khổ, cha khổ, mẹ khổ, chị khổ, anh khổ, con cái cháu chắc khổ. Khổ đến lân lý đồng bào, cả thầy cả bạn đều cho thấy có sự khổ.
Sự khổ bao trùm thế gian nên Phật Tổ có câu đời là bể khổ, ý nói khổ chiều rộng mênh mông bao la bát ngát nỗi khổ. Chiều sâu cường độ, độ sâu dày mỏng của khổ, thì tùy theo đó từng kẻ có khổ nặng khổ nhẹ, khổ ít khổ nhiều, khổ cao khổ thấp.
Người thấm tháp sự khổ sâu đậm là ông bác vĩ đại thời thanh niên. Lang thang kiếm sống, phụ bếp bồi tàu, quét đường xúc tuyết xứ lạ quê người, bon chen nhờ vả người này kẻ khác. Cái sự khổ nhục nó cùng cực quá làm nổ bung ra tăm tiếng "người cùng khổ" vài ba tờ rồi dẹp tiệm để lao theo mấy tư tưởng cực đoan đói rách, "cải tạo thế giới".


Qua sự khổ, may không chết là đến sự sướng. Tất nhiên, sướng không thể ngồi chờ sướng, phải chuẩn bị, phải hành động giành lấy mới có sướng. Đi tìm cái sướng, định hướng đến chỗ sướng luôn là mũi tên dẫn dụ xã hội tốt nhất. Ở đời, khổ nhiều sướng ít kẻ khôn ác biết lấy sướng ảo ra dụ dỗ đám đông khổ sở đi tìm cho nó sướng thật.
Trâu cày ghét trâu cột, trâu buộc ghét trâu ăn, khổ thấy sướng đương nhiên ác cảm mà ra sức chận nó lại, làm cho nó hết sướng đi mới hả. Thiên hạ khổ nhìn một ít kẻ sướng, nổi giận đùng đùng. Đu lên càng máy bay, sống chết ngàn cân treo sợi tóc đi tìm sướng, nguy hiểm quá sức mấy xứ khổ nhiều.


Chuyện thời sự, vị cựu đảng trưởng "nhân sanh thất thập cổ hy lai" vợ mới chết đã vội vã cưới bà nghị nọ tìm sướng. Gia đình căng thẳng, hằn học kiện cáo, vạch áo cho thiên hạ xem lưng tân phu nhân thủ đắc mưu kế nợ nần.
Có quý tử của "bí thư tỉnh uỷ" nọ xây biệt thự, lập vườn thượng uyển không gian sanh thái. Đã khéo léo về nơi hoang thôn ruộng địa ẩn nấp cho nó kín, vẫn đành ổ lộ ồn ào báo chí. "Được cho phép nói", thiên hạ chỉ mới dám châm chích "khen" vườn đẹp tài cao hay dòm ngó rồi dè dặt vòng vèo cái biệt phủ "không bình thường", vườn thượng uyển "có vấn đề", bởi may ông bố đang còn ghế vô sản cao cấp.
Quả nhiên đời nay khổ nảo tràn trề, già đảng khổ mà trẻ đảng cũng mất sướng. Tìm sướng đâu chưa thấy, thấy khổ trước mắt.


Chủ Nhật, 27 tháng 5, 2012

Siêu đẳng sử ký.

Rùa ghẻ nổi lên lặn xuống hồ ô nhiễm là linh vật được thiên hạ sùng bái mê muội tự vì nó "giữ chiều sâu quá khứ". Rút đầu rụt cổ rùa trì trệ, sống xếp vị thứ tứ linh, chết còn cái mu rùa. Thiên địa vô thường, trời đất còn thay đổi, thân xác thối thì bất tử, quả nhiên mê man cái xứ rùa chết thật.
Vô sản giai cấp cướp chánh quyền, làm cách mệnh dọn dẹp, trí phú địa hào đào tận gốc trốc tận rễ. Vô sản giai cấp lãnh đạo dân chúng xây dựng đại đồng chủ nghĩa, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu. Vô sản giai cấp xây biệt thự, lập vườn thượng uyển, sắm siêu xe, gửi con du học Thụy Sĩ, mua đất Canada.
Trước có ông Trương Bá Cần viết "Hai mươi năm xây dựng XHCN miền Bắc", lấy tư liệu Bắc Việt ở tạp chí CS, tạp chí Học Tập, báo Nhân dân mà nghiên cứu. Có kẻ bảo sử liệu VC bịp bợm, sáng tác nịnh bợ ca bác ngợi đảng, ngu dân hóa; dùng sử liệu ấy mà viết sử, thời coi như bỏ. Linh mục Cần bắt lý, nghiên cứu về CS Bắc Việt mà không dùng tài liệu Bắc Việt, chẳng lẽ lại dùng tài liệu VNCH ?


Nay bà Thụy Khê viết "Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc", trình bày nhiều phát hiện ngại ngần, rất không có lợi cho đảng bác. Tin tức chộn rộn mấy ngày qua, chưa thấy có ai trong đám quần thể giáo sư tiến sĩ "viện nghiên cứu bất tử" lên tiếng phản đối.
Vài ba sự cố - tác giả Thụy Khê nói có sách, mách có chứng :
- Sử đảng viết Hồ vĩ đại đến Paris năm 1914, "thời điểm này được lựa chọn để hợp lý hóa câu chuyện kể của Trần Dân Tiên — một bút hiệu của Hồ Chí Minh — theo đó anh Ba Nguyễn Ái Quốc đã có công lớn cùng với hai nhà cách mạng lưu vong nổi tiếng Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh trong việc khởi xướng và lãnh đạo phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp ngay trên đất Pháp trong giai đoạn 1914-1919.
Câu chuyện phịa này bị lật tẩy vì theo hồ sơ chính thức của Sở Mật Thám Pháp, " Tất Thành đến Paris ngày 7/6/1919. Ở số 10 Stockhom từ 7/6 đến 11/6. Ở số 56 Monsieur Le Prince từ 12/6 đến 13/7. Và từ 14/7/1919 đến ở 6 Villa des Gobelins.Về sau, thấy việc Tất Thành đến Paris năm 1914 quá khó tin, đảng ra lệnh cho Hồng Hà, tác giả cuốn Thời Thanh Niên của Bác Hồ, sửa lại: “Anh bỏ nghề phụ bếp ở LuânÐôn, sang Paris năm 1917, đấy là vào cuối năm 1917.
Tại sao năm 1917 lại được chọn? Là vì đó là năm xảy ra cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên và cuộc cách mạng bônsêvích tháng 10 ở Nga, như vậy hợp với câu chuyện “Bác ra đi tìm đường cứu nước và sớm giác ngộ chủ nghĩa cộng sản” của Ðảng CSVN."
- Như vậy " Nguyễn Tất Thành đến Pháp vào tháng 8 năm 1919 trong khi Hội nghị Hòa Bình Versailles đã được khai mạc vào ngày 18 tháng 1 năm 1919 - tức là trước khi Nguyễn Tất Thành đến Pháp bảy tháng. Nhóm "Người An Nam yêu nước" đã hoạt động từ năm 1916, vì vậy không thể do ông Nguyễn Tất Thành gầy dựng."


- Khả năng Pháp ngữ của ông bác vĩ đại:
" Cuộc truy tìm, khảo sát văn bản, hồ sơ của Bộ Thuộc Ðịa và Sở Mật Thám Pháp, và những điều Hồ Chí Minh đích thân viết ra dưới bút hiệu Trần Dân Tiên cho thấy khả năng Pháp ngữ của Nguyễn Tất Thành như sau :
Tất Thành bắt đầu học tiếng Pháp trong thời gian làm phụ bếp trên tàu Latouche-Tréville; thầy dạy : hai người lính trẻ giải ngũ, hồi hương. Sau được cô sen nhà ông chủ tàu ở Sainte-Adresse dạy bổ túc. Phải nhờ một đồng nghiệp không có trình độ cao lắm viết giùm đơn xin học ở trường Thuộc Ðịa. Ðến năm 1919, vẫn chưa viết đươc tiếng Pháp nên phải nhờ Luật sư Phan Văn Trường viết hộ. Trong hội nghị Tours của đảng Xã hội Pháp, theo lời thú nhận của Trần Dân Tiên, Tất Thành “nhức đầu vì khó hiểu” những gì mà các tham dự viên phát biểu.
Bây giờ chúng ta hãy lật hồ sơ của Sở An Ninh Pháp để xem họ đánh giá khả năng Pháp ngữ của Tất Thành như thế nào.
Trong báo cáo ngày 20/1/1921 của điều tra viên Josselme trình thượng cấp, ông ta viết: “Những ai biết tiếng Pháp và đọc những văn bản ký tên Nguyễn Ái Quốc đều thấy một sự thực hiển nhiên : Nguyễn Tất Thành không thể viết những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc.”
Tổng thanh tra Pierre Guesde cũng có một đánh giá tương tự về trình độ Pháp ngữ của Nguyễn Tất Thành : “Khả năng nói và viết tiếng Pháp của tay An Nam này không đủ viết những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc ".
Thụy Khuê còn cung cấp thêm một chứng cớ hùng hồn khác : một tài liệu video của Viện Quốc Gia Lưu Trữ Âm Thanh và Hình Ảnh INA – InstitutNational Audiovisuel – về buổi phỏng vấn Hồ Chí Minh của một nhà báo Pháp tháng 6/1964. Trong buổi phỏng vấn này, HCM đã trả lời với một tiếng Pháp thô thiển, “có nhiều lỗi sơ đẳng, có câu ông dịch nguyên văn tiếng Việt” như câu: “Le people Viet Nam c’est un et le pays du Viet Nam c’est un ” – ông dịch từng chữ khẩu hiệu: “Nước Việt Nam là Một, dân tộc Việt Nam là Một” sang tiếng Pháp. Trên 70 tuổi đầu mà HCM vẫn không bỏ được cái tật nói một thứ tiếng Pháp bồi của anh Ba phụ bếp năm xưa..."


Những nghi ngờ bác ở bên Tây, cũng giống cho nghi ngờ bác ở bên Tàu. Tập "Ngục Trung Nhật Ký", từ thời gian, văn cảnh, nhân vật, ngôn ngữ, người ta đọc thấy như là của một bác người Tàu Quốc dân đảng chớ không dính gì tới ông bác An Nam tại Tàu sau đó cả chục năm. Muốn giải độc nghi ngờ, chỉ cần công bố bản gốc nhật ký để nhà ngôn ngữ học so sánh ký tự bút tích của bác Tàu hay bác An Nam là ổn cả. Tuy nhiên, bút tích bản gốc là "tài liệu tuyệt mật". Thành ra, có vị giáo sư khen " nhật ký ở tù" vĩ đại bằng cách chỉ ca với tụng người dịch "thơ bác" mà thôi.
- Lời bàn luận:
Nhân dân lao động lũ lượt kéo nhau từng đoàn vô viếng lăng bác hàng vạn người trong ngày sanh nhựt bác. Người Kơ tu sắc tộc trên núi hay những thương binh tàn không phế, không đọc "cnốc", luôn có lòng kính yêu bác vô hạn. Quần chúng này sẵn sàng dùng nạng dùng chày dẹp dọn bọn phản động, thế lực thù địch. Nói xấu bác của cháu là phải trị tội phỉ báng. Đơn giản thế thôi.
Bài học cụ Phạm Quỳnh, nhà văn Khái Hưng, nhà nho Nguyễm Bá Trác đến Phan Khôi, Trần Dần đến Cù Huy Hà Vũ, Trần Huỳnh Duy Thức vẫn còn sờ sờ ra đó. Nhà văn Thụy Khê ở bên Pháp, ký giả Đỗ Thông Minh ở bên Nhật, viết sử ký khoa học nghi ngờ vì họ là trí thức ngoại quốc, biết khoa học lịch sử mà quên chuyện còn có bộ môn thần học siêu đẳng sử ký trong nước.


Sử ký VC có tính đảng, tính giai cấp, tính nhân dân. Sử sáng tác phục vụ nhân sinh, dựa đức tin chớ không dựa khoa học, vì mục đích giáo dục lòng tin đảng, kính bác yêu nước.
Trong cái thời bịp bợm, mất hết lòng tin thì đức tin vô bác là chỗ dựa tinh thần lớn học tập làm theo bác, theo đảng định hướng lên thế giới đại đồng.
Càng phân tách khoa học, càng soi sáng sự thật, càng vạch sự bịp bợm ra bao nhiêu thời càng làm thần dân của đảng thêm ghét "sử phản động", thêm kính bác hơn nữa.
Tần Thủy Hoàng, Võ Tắc Thiên, Lý Thế Dân, Tào Tháo cho tới bạo chúa Nero La Mã vẫn là nhân vật lịch sử có tiếng. Osama Bin Laden có hàng triệu tín đồ Hồi giáo tôn vinh thánh nhân thời nay. Tổng bí thư Polpot là lãnh tụ thiên tài của bọn Khmer Đỏ. Dân BTT chết đói giết nhau ăn thịt vẫn sướng lắm đời làm nô lệ cho cha con họ Kim...


Thứ Bảy, 26 tháng 5, 2012

Huê bạc tỷ.


Liên hoan phim Cannes, siêu mẫu Kelly Brook có đại gia Frederic người Pháp đề nghị tặng cô một triệu euro, nếu chịu đồng ý qua đêm với hắn !
Lời đề nghị khiếm nhã bị từ chối. Vệ sĩ của Kelly Brook tống cổ đại gia mê gái khỏi khách sạn Majestic Barriere, nơi Kelly lưu trú.
Một triệu euro tương đương 30 tỷ VNĐ. Xưa kia ngàn vàng mua lấy nụ cười, nay gần ba chục ngàn triệu mua tình một đêm người đẹp. Cho hay giai nhân thời nào cũng cao giá cả.


Ở đời, tiền nào của đó. Của rẻ rẻ tiền, đồ quý quý báu. Nhưng mà thấy ra giá trị vật thực giữa chợ đời xảo trá, tất phải con mắt tinh tường lão luyện.
Chuyện cô thôn nữ nhà quê đi mua sâm Cao ly bồi dưỡng mẹ già, phát hiện sâm hàng giả khoai lang khô xắc lát...
" May may chút nữa em lầm.
Khoai lang khô xắt lát em tưởng Cao Ly sâm bên Tàu.
"
Đến khi thôn nữ lấy chồng, lấy phải anh nông phu nghèo cả đời khoai nướng khoai luộc khéo giả dạng đại gia Korea, bèn than thở :
" Vì chưng tham của em lầm.
Khoai lang khô giả dạng, em ngỡ Cao Ly sâm Đại Hàn "

Chuyện bên Tàu thời nhiều. Mà phải khâm phục lái buôn người Tàu luôn có mắt tinh, tai thính, mũi đánh hơi rất xa. Thời xuân thu chiến quốc, lái buôn Lã Bất Vi buôn vua giỏi lắm, viết "Lã Thị Xuân Thu" khoe khoang trình độ mà lại cuối đời bị chính tay con trai xử tử. Thời nay, lái buôn China ồ ạt đổ bộ vô nước Nam mua gỗ huê đem về Tàu.


Lái buôn Tàu sẵn sàng chi 11 tỷ VNĐ để mua một khối gỗ huê, nảy sinh tầng lớp dân Nam mới gọi là "bọn sưa tặc", chuyên đi cưa trộm huê gỗ bán cho Tàu.
Giới bác học đông đúc An Nam rất tò mò tìm hiểu vì sao gỗ huê được bên xứ China quý báu đến vậy, cố quyết tìm hiểu nhưng bất lực. Câu giải thích suy luận đoán mò huê bạc tỷ dễ nghe : tại vì gỗ huê có ròn, đẹp chắc cứng lại thơm, người Tàu thích thú.

Thứ Sáu, 25 tháng 5, 2012

Chuyện chim hét ăn con giun.


Xưa có một tên là Giun làm nghề giữ lúa ngoài đồng. Một hôm có cha thằng Hét đến ăn trộm lúa, bị thằng Giun đánh chết.
Hét căm giận, thề nguyện thế nào cũng báo thù được cho cha mới nghe.
Một buổi, Hét bắt gặp Giun đuổi đánh.
Giun cắm đầu cắm cổ chạy bán sống bán chết lên trên núi. Thấy ông Bụt đang đứng đó, nó vội vàng quỳ xuống van lạy rằng :
- Tôi đang có sự nguy cấp, xin ông cứu tôi với...
Bụt hỏi :
- Sự gì ?
Nó nói :
- Trước tôi nhỡ tay giết chết cha thằng Hét, bây giờ nó thù, nó muốn giết chết tôi. Hiện nó đang đuổi tôi ở đằng sau lưng kia...


Bụt bảo :
- Làm thế nào bây giờ ? Tránh đâu cho thoát được ? Hay tao hóa cho mày làm con chim ?
- Nhưng rồi nó lấy cung nó bắn, thì tôi cũng không thoát được tay nó.
- Ừ, thì tao hóa cho mày làm con cá vậy.
- Nhưng rồi nó lại chăng lưới nó bắt, thì tôi cũng không khỏi chết với nó được.
Bụt nghĩ rồi bảo :
- Lên trời không thoát, xuống nước không khỏi...Thôi thì tao cho mày chôn ở dưới đất họa may mới xong được. Tao hóa cho mày một con bé và dài, không chân, không cánh và lẩn lút chui luồn ở dưới đất. Vốn mày tên là Giun, tao cho gọi con ấy là "con giun" !
Thằng Giun nghe gật đầu.
Ông Bụt liền hóa cho nó làm ngay con giun và con giun chui tuột ngay xuống đất.


Lúc Hét đến, không thấy Giun đâu, chỉ thấy ông Bụt. Hét mới lại thưa với Bụt rằng :
- Thằng Giun xưa nó giết cha tôi, tôi phải đuổi nó kỳ cùng, giết được nó mới nghe. Nó chạy đằng nào rồi, ông mách cho tôi với !
Bụt bảo :
- Tao đã hóa cho nó làm một con giun chui xuống dưới đất rồi.
Thằng Hét nghe nói, khóc lóc thảm thiết và như ý kêu van bắt đền Bụt rằng :
- Thù cha không báo, thật là bất hiếu, mà cái lỗi ấy tại ông...
Bụt nghe nó nói, thương tình nghĩ cái nhẽ "oan oan tương báo" khó lòng tránh được mới bảo nó rằng :
- Ừ, thì bây giờ tao hóa cho mày làm giống chim, cứ lấy tên mày mà gọi là chim hét. Rồi mày tìm giun ở dưới đất mà báo thù vậy.
Nói xong, ông Bụt làm phép cho thằng Hét hóa ra ngay chim hét, và từ đó, hét chỉ tìm giun mà ăn lấy làm ngon lắm.
Sau người ta lại thích ăn chim hét cũng cho là ngon. Bởi vậy, tục ngữ mới có câu : "muốn ăn hét phải đào giun " là ý nói hét hay ăn giun, mình phải đào đất bới giun lên, hét nó xuống ăn giun thì mình mới bắt được nó.
( Truyện cổ nước Nam )


Thứ Năm, 24 tháng 5, 2012

Đường hẹp lối mòn.


Dân số đông đúc, nhu cầu ăn ngủ, sinh dục, phụ sản tăng cao; đường sá xe cộ hối hả xuôi ngược ngày lại thêm nhiều. Văn minh cơ sự xã hội tấp nập tự nhiên luôn cần rộng đường thăng tiến. Người đông xe nhiều lên mỗi ngày, đường đi lối lại chật chội y nguyên hoặc nới ra tí chút, tất nhiên ùn tắc, kẹt xe, tai nạn sẽ thường bề bộn.
Đường thiên hạ đi nhiều không mở, lên núi mở đường rộng đại lộ chẳng ai đi. "Tầm nhìn xa" hay là mở đường lâm tặc phá rừng, xe gỗ lậu lưu thông, cho cô hồn đi dạo ?


Xe nhiều, mở rộng đường ra để nhiều làn đi lại thoáng, không lo ùn tắc, vốn sự đương nhiên. Hạn chế số lượng xe, lại không nới rộng đường, cách quá ngu si phản động.
Chánh trị đường lối cũng tương tợ giao thông đường lộ.
Đường lối mở rộng, tự do thênh thang mới đáp ứng nhu cầu xã hội đang ngày nẩy nở, đông đúc thiên hạ văn minh. Đường lối đa hướng rộng rãi mới hợp lòng dân, hợp đời, hợp thời, hợp lệ. Rủi thay chánh trị cổ lổ, mấy lão già lẩm cẩm tự sướng, được thế cầm quyền thời cố sức bịt đường dư luận, cấm xe cấm cộ bế bít, thích lủi lối mòn, thích xe đạp thồ như hồi "kháng chiến". Tuổi già bảo thủ, ưa nhàn, sợ hãi thay đổi, lo âu mở đường lớn "đa chiều" là "tự sát".
Suy cho cùng, cuộc sống luôn lấy sanh sôi nảy nở, đa chiều đa hướng làm động lực đi tới. Hủ lậu bảo thủ đường lối, cứ sợ đường rộng xe nhiều, " không ưa các giá trị tự do", thời làm sao đất nước tiến bộ ?


Thứ Ba, 22 tháng 5, 2012

Tài nghệ đốt nhà.


Đất Sài gòn nảy sanh tiểu dị nhân tài nghệ đốt nhà.
Báo chí rầm rộ đưa tin chuyện bé gái tài lạ, cách không phóng hỏa, đốt cháy được quạt máy, bồn cầu vệ sinh, áo quần tủ đứng, công tắc điện cắm lổ găm, lầu ba gát xép.
Gia đình tiểu dị nhân giàu có, quan hệ rộng khắp, bèn vời "chư vị" thầy bà siêu nhiên ngoại cảm tới ngâm cứu "tài sản quý".
Nghe rằng quý giáo sư tiến sĩ tập họp tại gia chủ, xem xét sự lạ rồi nhận phong bì bố mẹ "bồi dưỡng" đền ơn sự đã bỏ chút thì giờ quý báu quan tâm. Có thể là đồn đại, vị đời này chưa ai ngu phát tiền vô đối vô cầu danh. Khi đám "trí thức siêu nhiên" vốn quá rất đông đúc thời đại, phong bì tư gia phát sao cho đủ ?
Nhận phong bì rồi, giáo sư nọ khẳng định vị tiểu dị nhân tự đốt nhà là tài sản vô giá của quốc gia, có năng lượng siêu nhiên thần thoại, nhà nước cần đầu tư nghiên cứu kỷ lưỡng. Có tiến sĩ kia thời tổng kết đánh giá rằng mẹ dị nhân đẹp, dị nhân cũng rất dễ thương...
Nhiều người theo dõi sát sao chuyện lạ này, bèn lên bình luận rằng : xuất hiện sự dị nhân vô cùng phước báu dân tộc. Tài nghệ đốt nhà, gây cháy bồn cầu vệ sinh, nếu kiểm soát tốt, sẽ hữu ích năng lượng ở thời nay hỏa dầu cạn kiệt.
Lợi ích kinh tế, đây là nguồn năng lượng thần sầu thay thế nhiệt, thuỷ điện nước nhà. Về quốc phòng, dị nhân là vũ khí tương lai phun lửa xịt khói đốt cháy bọn Thi lang, Ngư chính, Hải giám bảo vệ vùng chủ quyền biển đảo.


Nước nhà nay đến hồi thịnh vượng nên nhiều tốt đẹp đang đến. Giáo sư NBC chứng minh được bổ đề phiu thế giới bất lực giải quyết. Hạ Long trở thành một trong bảy sự kỳ quan thiên nhiên quốc tế. Cá lóc Cư M’ga (Đăk Lăk) nổi lên với 18 chữ thuỷ hoả tương đồng, trăng yên nước đẹp, thịnh hưng phát triển hỷ hả in đậm trên trốt. Nay sanh thêm dị nhân quý hiếm có tài đốt nhà.
Số kẻ thiếu thốn tin tưởng cho rằng tiểu nữ dị nhân mắc chứng não loạn. Y thị ranh mảnh dùng bật quẹt China đốt đồ nhựa trong nhà tiêu sầu giải trí. Lão gia chủ nhân nhân cơ hội chập điện cháy nhà, bèn lăng xê con gái mình nổi tiếng. Mời đoàn "nghiên cứu đến", phong bì mua chuộc, lẻn vô tủ áo quần mà đốt, "minh chứng" cho cái tài nghệ con cái đốt nhà.
Tuy nhiên, "đông đảo nhân dân" đồng tình với ý kiến vị phụ huynh bức xúc " không ai lại đốt nhà để cầu sự nổi tiếng". Nghĩ cũng đúng.


Thứ Hai, 21 tháng 5, 2012

Thiên đường nơi đâu ?


Có người hỏi thiên đường ở đâu để tìm cách đến sống cho nó sướng ?
Câu trả lời nhiều nhặm tùy những suy nghĩ đáp án :
Thiên đường tại nhân gian nếu bạn đời sống an ổn, yêu mến nhân gian.
Khi bạn thấy nhân gian lòng người đầy hiểm ác, trái phải đảo lộn; chỉ được ấm áp đáng yêu gia đình thời thiên đường của bạn là ở trong nhà.
Còn như bạn thấy các thành viên trong gia đình hết sức phức tạp, chín người mười ý. Bạn chỉ những lúc yên thân một mình mới tìm được sự an ổn. Thiên đường là ở trong tâm bạn.


Tâm của bạn nếu luôn chất đầy những sân hận, oán hờn, bất mãn thì bạn sẽ đáp : cuộc đời này không hề có thiên đường, một ngày cũng như mọi ngày.
Bậc tu thiền đại sư trả lời như sau :
Thiên đường trước đây cách địa ngục chỉ một bức tường mà thôi. Một hôm, tường ngăn "Berlin" bị gió nổi dậy, thổi sập hết cả. Diêm vương bèn gửi thư đến Thượng đế, yêu cầu phải có trách nhiệm khắc phục sự cố. Lâu quá, không thấy ai trên trời xuống sửa chữa, nóng ruột Diêm vương điện lên hỏi nhà Trời. Ngọc hoàng bèn đáp :
- Thiệt tình, ở thiên đường trẩm không tìm ra lấy một người tài có khả năng sửa chửa !
Từ đó, thiên đường và địa ngục gần như không có sự ngăn cách.
( Chuyện Thiền )


Thứ Bảy, 19 tháng 5, 2012

Trị chính.


Minh Tâm Bửu Giám, sách chữ Nho, thiên "Trị Chính" (công việc trị nước) ghi "Tử viết" :
" Không giáo dục mà giết gọi là ngược. Không răn bảo mà muốn phải nên việc gọi là bạo. Gặp chi ra lệnh đó gọi là tặc.
Cất nhắc người thẳng, bỏ kẻ xiên vẹo thì dân phục. Cất nhắc kẻ xiên vẹo, bỏ người ngay thẳng thì dân bất phục.
Hễ mình ngay thì chẳng cần ra lệnh, dân cũng thi hành. Trái lại mìn
h chẳng ngay thì dù có ra lệnh, dân cũng không theo.
Lời nói mà trung tín, đức hạnh mà đốc kính thì dù ở nơi man rợ cũng hành đạo được. Lời nói không trung tín, đức hạnh không đốc kính thì dù ở ngay chỗ xóm làng cũng không làm được gì vậy..."

Lời nói vị thánh hiền cách đây gần 2.500 năm, "trị chính" đơn giản mà hay.
Chính trị ngày nay trị chính chó chê mèo mửa, hay dụng mưu kế tà đạo cả.
Bầy sâu dân mọt nước len lỏi trà trộn tọa thượng ghế công quyền, cùng nhau hợp tác liên thủ xâu xé công khố, không ai không biết.
Đám cán bộ tội đồ lộ tẩy, luật pháp cần trừng trị đích đáng nêu gương đại chúng, lại dùng "kỷ luật khiển trách", "cáo cảnh kiểm điểm", giữ lại nguyên chức hoặc chuyển chức, thăng chức. Dân chúng phẩn nộ vô cùng.


Thật tình, đây là kế sách "dung người được báo", hỷ xả tội ác đàn em, cho chúng đội ơn đem thân khuyển mã để lập công chuộc tội, thêm thuốc tăng lực giữ chế độ :
" Vua Trang Vương nước Sở cho các quan uống rượu. Trời đã tối, đang lúc rượu say, đèn nến bỗng gió tắt cả. Trong lúc ấy, có một viên quan thừa cơ kéo áo cung nữ. Người cung nữ nắm lấy, giật đứt giải mũ, rồi tâu với vua rằng: "Có kẻ kéo áo ghẹo thiếp. Thiếp giật được giải mũ. Xin cho thắp đèn ngay để khám xem ai đứt giải mũ, thì chính là kẻ ghẹo thiếp..." Vua gạt đi nói: "Thôi ! không làm gì ! cho người ta uống rượu, để người ta say, quên cả lễ phép, lại nỡ nào vì câu chuyện đàn bà mà làm sỉ nhục người ta!"
Rồi lập tức ra lệnh rằng: "Ai uống rượu với quả nhân hôm nay mà không say đến bứt đứt giải mũ là chưa được vui".
Các quan theo lệnh, đều dứt giải mũ cả. Nên suốt tiệc hôm ấy, được vui vầy ổn thỏa.
Hai năm sau nước Sở đánh nhau với nước Tấn. Ðánh luôn năm trận, mà trận nào cũng thấy một viên quan võ, liều sống, liều chết xông ra trước và đánh rất hăng, làm cho quân Tấn phải lùi. Vì thế mà quân Sở được. Trang Vương lấy làm lạ cho đòi viên quan ấy lại hỏi: "Quả nhân đãi nhà người cũng như mọi người khác, cớ sao nhà ngươi lại hết lòng giúp quả nhân khác người như vậy?"
Viên quan thưa rằng: "Thần rắp tâm muốn đem tính mệnh để hiến nhà vua đã lâu. Mãi đến bây giờ mới gặp dịp báo đền nghĩa xưa, thực là may cho thần lắm... Thần là Tưởng Hùng, chính là người trước bị đứt giải mũ mà nhà vua không nỡ làm tội đấy".


Dân gian câu nói "bụng ai cũng đầy cức" không sai. "Công bộc" mặt lớn cằm bạnh miệng rộng đồ ngon nhiều nên bụng ăm ắp. Cả 100% thèm bạc, khát tiền, say chức, mê gái. Nếu dẹp triệt đi khi bọn chúng xì ổ, chúng sanh bất mãn, hè nhau gia nhập "lề chống đối" thời chế độ chết sớm. " Chặt chém hết lấy ai mà dùng ! "
Cái điều du di tha thứ, dụng tội đồ cho ngồi ghế cũ tất lòng dân bất phục, phân chia thêm giới tuyến hận thù dân quan hết sức nguy hiểm. Nuôi dưỡng nhân sự lưu manh, bộ máy quản lý thối nát, chế độ cũng dần dà hấp hối.
Một số "công bộc xì thối" danh nổi đình đám, trông mặt bắt hình dong.
- Dương Chí Dũng, hàng hải cục trưởng truy nã lệnh.


- Huỳnh Ngọc Sĩ, đông tây xa lộ tù nhơn.


- Nguyến Trường Tô, đầu tỉnh chuyển ngành chưa biết.


- Cao Minh Quang, đương chức thứ y tế cảnh cáo.


- Huỳnh Thanh Thắng, Châu Thành huyện phó tư pháp loạn.


Chuyện thủ nọng.


Một miếng giữa làng bằng sàng xó bếp, chiếu làng trải ra, vai vế chức sắc "vị trí xã hội" ngồi lên đó mà cắn xé rồi sai bọn truyền thông chớp ảnh, truyền hình trực tiếp.
Nay khác mà giống cái "bản chất thực thể" xưa. Nhất thủ nhì nọng được thay bằng phong bì to nhỏ. To tiền đô, nhỏ tiền đồng. Trưởng phó thứ bộ ban, chủ đoàn chủ đạo tỉnh, huyện đều có giá trị thủ nọng tuỳ ghế nó ngồi.
Đọc bài " Hành chính cai trị hay hành chính phục vụ ? ", có ý nghĩ sau đây :
Làm quan chế độ nào mà không sung sướng ? Lên được ông nọ mụ kia sẽ có kẻ hầu người hạ, nhà cao cửa rộng, điền trang sản nghiệp, của cải bạc tiền hằng hà sa số. Chưa kể tiện nghi sanh hoạt, xe cộ máy bay, mỹ nữ thơ ký quốc sắc thiên hương, thân nhân chết đám to rầm rộ chen chúc điếu lễ, con cái sống sung sướng ngoại quốc hý hởn.
Cái điều sướng vua chúa quan cách, to sướng cách to, nhỏ sướng kiểu nhỏ.


Trật tự thụ hưởng tánh cách cha truyền con nối tre già măng mọc. Con vua thời lại làm vua, con sãi giữ chùa thời quét lá đa. Lên làm vua, làm quan rồi thì luôn muốn giữ "ổn định xã hội", đảm bảo cho con cho cái, cho gia đình mình sướng, sướng mãn nguyện, sướng cả đời, di truyền đời nay qua đời khác. Muốn vầy, thường thấy các vua quan thực hành cách thức "bộ đôi" :
- Tâm lý chiến : xây dựng ý thức cộng đồng thuần phục chấp nhận trật tự xã hội đang có. Nhân danh lợi ích cộng đồng, nhân danh tổ quốc, nhân dân, ca tụng nhồi sọ về cái gọi là "Thái tổ Cao hoàng", "lãnh tụ siêu phàm đỉnh của đỉnh, "danh nhân siêu vĩ đại thế giới".
- Xây dựng lực lượng, đào tạo chó săn cho ăn uống no nê sẵn sàng cắn xé bảo vệ chế độ.
Thể chế chánh trị độc tài vua chúa cố quyết bóp cổ, cột tay dân chúng. Thời gian cai trị càng lâu, tính thuần thục sợ hãi, chấp nhận trật tự càng thấm thuốc nhuộm ngâm dài .
Dân chúng muốn thay đổi, chỉ còn cách khởi nghĩa. Người dựng cờ khởi nghĩa dùng chiêu bài chửi bới triều đình bạo ngược, nêu cao ngọn cờ "vì dân", "vì nước", bịp bợm thiên hạ, lôi kéo đi theo mình cho đông đúc, lực lượng nhiều thắng lợi lớn.
Được là vua, thua là giặc. Khởi nghĩa may thành công, cầm đầu lên làm "Thái tổ", "Thái tông" hay "Lãnh tụ" vĩ đại. Khởi nghĩ rủi thất bại, thủ lãnh bị bắt, chịu hình phạt tru di cửu tộc, bị chém đầu hay xử bắn về tội phản quốc phản động, hoặc phải mọt gông ở tù.


Ví dụ, ba anh em lục lâm thảo khấu Nhạc, Huệ, Lữ khởi nghĩa thành công, mở ra trào Tây Sơn, áo vải cờ đào danh lưu sử sách.
Ví dụ, trí thức nho học Cao Bá Quát chiêu bài dụ dỗ dân chúng "Bình Dương, Bồ Bản vô Nghiêu, Thuấn - Mục Dã, Minh Điều hữu Võ, Thang ". Khởi nghĩa đại bại, "Giặc Châu chấu" bị triều đình bắt ra tru di tam tộc, cảm thán cái đầu sắp rơi xuống đất :
" Ba hồi trống dục, mồ cha kiếp
Một nhát gươm rơi, mả mẹ đời "

Giấc mộng thái tổ thái tông bại liệt, trí thức họ Cao tủi phận giặc cỏ tội phạm rơi đầu. Chơi được chịu được, chửi đù đéo mả mồ hằn học hận cho mình bị thua đó thôi.
Thời nay, thiên hạ quá nhiều đời đúc kết hiểu biết, thấy chán ghét mấy sự nhân danh "đỉnh cao trí tuệ", "tự do dân chủ", thảy đều một duột bụng chó thèm thịt dân cả.


Thay đổi, tìm kiếm một nền chánh trị chính danh, một chế độ tương thích chống được lạm quyền, huy động được tài năng xã hội cho nước nhà thịnh vượng, có thể thượng sách là con đường hòa bình diễn biến, thăng tiến kinh tế để cải cách dân chủ từng bước, có giai đoạn hẳn hoi, phù hợp lòng dân ưa an ổn.
Ở một xứ sở dân chúng đã quá sành sõi biết hết cả mọi chiêu bài giả dạng kiếm chác thủ nọng, ấy mấy "đảng ta", "đảng địch" cứ lải nhải nọ này "vì dân", "vì nước", "hưng quốc", "phục quốc" thời quả nhiên quá như đồ mê ngủ.

Thứ Năm, 17 tháng 5, 2012

Thuật xử thế của người nay.


Người xưa xử thế kiểu người xưa, người nay xử thế cách người nay.
Sách xưa dạy khôn của cụ Nguyễn Duy Cần có nhiều chuyện ví dụ rồi rút ra bài kết luận.
- Hàn Tín chịu nhục luồn trôn tên hàng thịt. Đem thân đến thờ Lưu Bang chịu rẻ rúng cùng cực, may nhờ đám tín cẩn Tiêu Hà, Hạ Hầu Anh biết y tài ba níu kéo lại, khuyên lơn Hán Vương mới dùng. Tín là người kinh bang tế thế, dụng binh như thần thế mà số phận chỉ làm cấp dưới phò tá một đình trưởng ngạo mạn mê tửu sắc nhưng có số làm vua. Làm tướng quên câu sáng kiến cấp dưới là do cấp cao chỉ đạo mới thành, nên cung Vị Ương bị rơi đầu có oan chi lắm. Có tài mà cậy chi tài, chữ tài liền với chữ tai một vần.
" Đem thân bách chiến dựng cơ đồ,
Thế sự hưng vong một cuộc cờ.
Danh lợi anh hùng mang thảm lụy,
Gươm treo nhật nguyệt chửa phai mờ..."

- Cứu ông bố Perrichon người đẹp ngã ngựa không bằng giả đò bị ngựa ngã để bố nàng cứu, gã Daniel cơ hội may làm rể. Thi ân không bằng thọ ân.


- Di Tử Hà cắn trái đào thấy ngon bèn dâng Vệ Linh Công miếng dư để nịnh phải biết có ngày chịu tội khi quân dâng vua ăn đồ thừa. Khi thương trái ấu cũng tròn, khi ghét trái bồ hòn cũng méo.
Thời nay, thuật xử thế nó đơn giản. Sống trên đất An Nam dưới thời CS trị vì, ai cũng đồng ý với xử thế thượng sách. Ấy là giả đui, giả điếc, giả câm, giả ngu, giả điên may chăng bảo toàn mạng sống hy vọng đời tương lai đổi mới.
Kẻ nào mắt sáng choang gì cũng thấy, tai thính nhạy gì cũng nghe, mồm to miệng rộng thấy sai thì nói, trí thông minh thích "kiến nghị ", não tỉnh táo thèm "phản biện"... thời khí số coi như đã tàn.


Thứ Tư, 16 tháng 5, 2012

Tan chảy đờn bà.


Bên xứ Phi châu có giống khỉ hú đặc sắc. Cứ tầm rạng đông mặt trời mọc thời bọn đực khỉ hú lên inh ỏi. Tiếng hú chúng vang xa đến cả 2 km cũng nghe thấy.
Mục đích khỉ hú dùng tiếng hú hét dụ dỗ bạn tình khỉ cái. Tiếng hú sẽ làm bọn khỉ cái "xao xuyến", "tan chảy", tìm đến bạn tình lũ khỉ hú để điều kiện sanh sản giống nòi nhà khỉ.
Khác khỉ Phi châu hú, giống đực người thích dùng tiếng hát, tiếng đàn để làm "tan chảy" bọn đàn bà, để lôi kéo giống cái bu tới vây quanh, kiếm cách đào hoa chi số, rơi vãi thêm đông đúc gien dòng ca nhạc.
Đàn ông yêu bằng mắt, thích nhìn bọn gái đẹp trẻ trung dễ thương xinh xắn.
Đàn bà yêu bằng tai, thích nghe lũ đàn ông tán tỉnh nịnh bợ, hát hay đàn giỏi.


Sự di truyền bản năng súc vật khi thêm "tinh hoa văn hóa" sẽ dần dà đưa đẩy nhân chủng, nhân dạng, nhân sinh đẹp đẽ lên. Các tế bào cộng sinh cấu thành "cục thịt thối" tìm đủ cách bảo tồn, sanh sôi nẩy nở chuổi cong gien xoắn xít.
Đàn ông khổ vì đàn bà đẹp, sản sinh ra bọn gái chân dài tinh vi trắng trợn moi tiền, sống bám đại gia. Đàn bà lụy lời ca giọng hát ấm cúng "tỉ tê" gien to dài thược, sanh ra cái gọi là chảy tan tan chảy.
Tài năng VN vừa rồi xuất hiện nam ca giọng hát tiếng Tây, "tỉ tê" bắt chước y chang bản chánh Youtube, làm tan chảy lắm bọn đàn bà.
Coi mấy bản gốc bọn Tây nó hát, xem tài nghệ "tài năng" An Nam ta nó ca bắt chước, bèn nhớ chuyện tài con lừa ở Cổ Học Tinh Hoa, ngẫm nghĩ nực cười.


"... Đất Kiểm xưa nay vốn không có lừa. Có người hiếu sự, tải một ít lừa đến đấy nuôi.
Lừa thả ở dưới chân núi. Buổi đầu, hổ trong núi ra, trông thấy lừa, cao lớn, lực lưỡng tưởng là loài "Thần vật" mới giáng sinh.
Thấy lừa kêu to, hổ sợ quá, cong đuôi chạy. Dần dần về sau hổ nghe quen tiếng, thấy lúc nào lừa kêu cũng thế lấy làm khinh thường.
Một hôm, hổ thử vờn, nhảy xông vào đầu lừa. Lừa giận quá, giơ chân đá, đá đi đá lại quanh quẩn chỉ có một ngón đá mà thôi.
Hổ thấy vậy, mừng bụng bảo dạ rằng: “Tài nghệ con lừa ra chỉ có thế mà thôi!” Rồi hổ gầm thét chồm lên, vồ lừa, cấu lừa, cắn lừa, ăn thịt lừa đoạn rồi đi."
- Lời bàn của cụ Ôn Như :
Bài này có ý nói ở đời có lắm người lắm sự lúc mới biết cho là lạ thì còn ưa, còn sợ, đến lúc đã biết rõ rồi thì lại khinh thường, chẳng coi vào đâu nữa.
" Nhác trông ngỡ tượng tô vàng.
Nhìn ra mới biết là chẫu chàng ngày mưa."

Nhưng bài này lại có ý chê người khờ dại không biết giữ thân cho kín đáo, để đến nổi người ta dòm được tâm thuật của mình mà làm hại mình, như con lừa bị con hổ hại vậy. Những nhà làm văn bây giờ vẫn thường hay dùng hai chữ “kiềm lô” (lừa đất Kiểm) để chỉ những người tài nghề kém cỏi, không có gì lạ."