Thứ Ba, 31 tháng 1, 2012

Sơn trà.


Năm xưa du ngoạn ghé ngôi chùa cổ tìm chút thanh thản, gặp hòa thượng nọ nức nở khoe khoang chậu Bạch vương trà. Ngài ồn ả tâm sự như quá ngộ cố nhân tri kỷ.
Cây chè người miền Nam gọi trà, lá trà sao sắc ra các loại trà nhấp nháp tịnh tâm ban sáng. Trà đạo, trà kinh, trà chuyện nghe đã nhiều, nay kể hoa chè hoa trà vui vậy .
Trồng chè cố ý lấy hạt gieo trồng không cắt lá bẻ cành, cây sẽ vươn cao hoa trắng, vừa đẹp vừa thơm. Từ giống cây này, sinh sự ra vô số hoa trà sắc màu trái biệt, trắng đỏ hồng vàng, hữu hương vô hương, tùy ý tha nhân yêu mến lựa chọn.


Hoa trà to nhất ấy là Hải đường, thường trồng mấy vườn xưa nhà cổ chùa chiền cảnh sắc ẩn dật tu hành. Người ta ít trồng vì sợ câu lệ nhỏ hải đường sinh xui xẻo. " Hải đường lả ngọn đông lân. Giọt sương đeo nặng cành xuân la đà ". Quả nhiên cụ Nguyễn Du dụng ngôn ngữ lợi hại thật...
Cành hải đường trụi lá chân, trên liêu xiêu ngả ngớn mấy cái bông hoa to sanh cái cảm giác bất an khó chịu. Nên chi trồng hoa Hải đường phải cách thức cây dinh dưỡng mập mạp cốt cành to phú túc, lá dày khó rụng, hoa cấu kết sung sức xanh lá, đỏ hoa, vàng nhụy mới gọi là đẹp.


Tô Đông Pha đời Tống thơ hoa Hải đường, nói rằng ban đêm đốt đèn ngắm hoa vì sợ hoa nó tàn đi.
" Ðông phong niểu niểu phiếm sùng quang,
Hương vụ không mông, nguyệt chuyển lang.
Chỉ khủng dạ thâm hoa thụy khứ,
Cố thiêu cao chúc chiếu hồng trang."

Loài hoa trà được trồng đại trà ấy gọi Trà mi. Trà mi lắm loại đủ sắc đa đơn cánh đơn. Trà mi đỏ hồng vào xuân người ta hay chở đi bán dọc đường dọc sá, ai thích thì mua về đặt sân nhà chưng cho đẹp. Bạch vương trà có cánh hoa màu trắng. Nó hoi hiếm bởi người ta ít chuộng sắc trắng cái màu tang chế nên ông sư kia mới quý báu ngộ nhận.
Hoa trà mi hàm tiếu, mãn khai, rực rỡ rồi tan tác bầm dập. "Tiếc thay một đóa trà mi, con ong đã tỏ đường đi lối về." Con ong chui vào bông hoa, lộn lui bò tới, thám hiểm dẫm đạp, dày vò thỏa thuê thời còn chi đóa hoa trà mi nữa...


Một giai thoại văn chương hồi Pháp thuộc, Tổng đốc Lê Hoan tổ chức thi vịnh thơ Kiều, bèn mời cụ nghè Yên Đổ ngồi trên ghế thầy chấm. Mấy chục bài vịnh Kiều, thí sinh Chu Mạnh Trinh vịnh bác Sở Khanh như sau đây.
" Những tưởng chim lồng chắp cánh bay,
Họa khi vận rủi có hồi may.
Làng nho người cũng coi ra vẻ,
Bợm xỏ ai ngờ mắc phải tay.
Hai chữ tin hồng trao gác nguyệt,
Một roi vó ký tếch đường mây.
Mẫu đơn vùi dập cơn mưa gió,
Cái nợ yên hoa khéo đọa đày."

Cụ Yên Đổ lấy bút phê bình " Rằng hay thì thật là hay, nho đối với xỏ lão này không ưa ! "
Sau này khi cụ nghè đã cáo quan về làng, mắt đục thủy tinh thể, lòa hết thấy đường, Chu Mạnh Trinh thì lên làm quan, bèn thâm thúy tặng cụ một chậu sơn trà hữu sắc vô hương, có ý chê cụ nghè bất tài, xưa chấm bài thi mà không hiểu được ý hay của Chu vậy.


Cụ Yên Đổ tức ý, làm bài thơ " Sơn Trà" bằng chữ Hán tặng lại.
" Xuân lai khách tặng ngã sơn trà,
Túy lý mông lung bất biện hoa
Bạch phát thương nhan ngô lão hỉ,
Hồng bào kim đái tử chân da ?
Tầm thường tế vũ kinh xuyên diệp,
Tiêu sắt thần phong oán lạc dà.
Cận nhật tương khan duy dĩ tị
Liễu vô hương khí nhất kha kha !

Cụ còn tự dịch ra tiếng Việt như sau đây.
" Tết đến người cho một chậu trà,
Ðang say ta chẳng biết rằng hoa.
Da mồi tóc bạc ta già nhỉ.
Áo tía đai vàng bác đó a ?
Mưa nhỏ những kinh phường xỏ lá,
Gió to luống sợ lúc rơi già.
Xem hoa, ta chỉ xem bằng mũi
Ðếch có mùi hương, một tiếng khà."


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét